Dự thảo BLHS (sửa đổi) gồm 26 chương, 443 điều, tăng 99 điều so với BLHS hiện hành, trong đó giữ nguyên nội dung 43 điều, bãi bỏ 6 điều, bổ sung mới 68 điều và sửa đổi 329 điều. Dự thảo BLHS đưa ra nhiều điểm mới quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; tôn trọng và đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân; thể hiện tinh thần đổi mới quan niệm và nhận thức về tội phạm và hình phạt; nội luật hóa các quy định có liên quan của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên…


Một số vấn đề trọng tâm của dự thảo BLHS (sửa đổi) đề cập tôi rất quan tâm như: trách nhiệm hình sự của pháp nhân và loại tội pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự; xử lý hình sự đối với người trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng; phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên và biện pháp thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội; cụ thể hóa tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế; việc bỏ hình phạt tử hình ở một số tội, quy định không áp dụng hình phạt tử hình, không thi hành án tử hình trong một số trường hợp; quy định không giảm án đối với người bị kết án tử hình nhưng được ân giảm xuống tù chung thân; trục xuất là hình phạt chính hay chỉ là hình phạt bổ sung; có nên chuyển đổi hình phạt tiền, cải tạo không giam giữ thành phạt tù có thời hạn; có nên quy định không áp dụng và không thi hành án tử hình đối với người bị kết án từ 75 tuổi trở lên… Những vấn đề trên được xem là rất quan trọng, thiết thực, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay tiếp tục được thực hiện có hiệu quả hơn. Về cơ bản tôi đồng tình với các quy định của dự thảo luật. Tuy nhiên, cũng còn một số vấn đề còn có ý kiến khác. Dưới đây là một số ý kiến đóng góp cụ thể vào dự thảo BLHS (sửa đổi):

Một là,về trách nhiệm hình sự của pháp nhân và loại tội pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự:

Theo Điều 74 của dự thảo BLHS (sửa đổi) về “Áp dụng quy định của Bộ luật hình sự đối với pháp nhân  phạm tội”: Tôi đồng tình theo hướng xem pháp nhân là đối tượng của quan hệ pháp luật hình sư: “Pháp nhân phạm tội theo quy định của Bộ luật này phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này”. Theo đó, không chỉ có pháp nhân là tổ chức kinh tế, mà tất cả pháp nhân nói chung đều có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Nói cách khác là cần mở rộng khái niệm pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự trong dự thảo BLHS sửa đổi. Quy định như vậy mới đảm bảo tính tòn diện, khách quan, công bằng, không bỏ lọt tội phạm.

Tại Điều 76 quy định về “Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân”, tôi đồng tình với quy định của dự thảo luật theo phương án 1: “Pháp nhân chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội: buôn lậu (Điều 190); trốn thuế (Điều 204); cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 213); sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 214); thao túng giá thị trường chứng khoán (Điều 215); trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 221); gây ô nhiễm môi trường (Điều 231); vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại (Điều 232); đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam (Điều 236); huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 239); huỷ hoại rừng (Điều 240); tài trợ khủng bố (Điều 313); rửa tiền (Điều 336); nhận hối lộ (Điều 367); đưa hối lộ (Điều 377)”. Bởi vì: nếu quy định như phương án 2: “Pháp nhân là các tổ chức kinh tế chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về môi trường, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, xâm phạm sở hữu, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và tội phạm về chức vụ do Bộ luật này quy định” là chưa chặt chẽ và trên thực tế có nhiều loại pháp nhân cùng tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội, nếu chỉ quy định Pháp nhân là các tổ chức kinh tế” không thôi thì có nhiều khả năng bỏ lọt tội phạm.

Hai là, về xử lý hình sự đối với người có hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng:


Khoản 1, Điều 172 của dự thảo luật quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 02 lần đến 03 lần giá trị tài sản đã trộm cắp, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”, về cơ bản là hợp lý, tôi đồng tình. Tuy nhiên, cần bổ sung thêm các yếu tố như: “hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân” hoặc “tài sản bị trộm cắp tuy giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ hoặc có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần người bị hại và gia đình họ” thì vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 172 BLHS... để làm rõ hơn về mặt khách quan của tội phạm, thuận tiện hơn trong việc định tội, lượng hình.

Ba là, việc bỏ hình phạt tử hình ở một số tội danh; quy định không áp dụng và không thi hành án tử hình đối với một số trường hợp:

Theo dự thảo BLHS (sửa đổi), dự kiến sẽ bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội danh, bao gồm các tội: cướp tài sản; phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; chống mệnh lệnh; đầu hàng địch; phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lượng; chống loài người, tội phạm chiến tranh và tội vận chuyển, tàng trữ trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Về cơ bản tôi đồng tình. Tuy nhiên, đối với tội “vận chuyển, tàng trữ trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” thì việc bỏ án tử hình là chưa hợp lý trong điều kiện hiện nay, nhất là đối với các trường hợp là người chỉ huy, cầm đầu, chủ mưu đường dây vận chuyển, tàng trữ trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy. Hiện nay vẫn còn rất nhiều vụ án hình sự về ma túy mà bọn tội phạm tham gia vận chuyển, tàng trữ hàng trăm bánh heroin. Tính chất, mức độ phạm tội chưa có dấu hiệu giảm, thậm chí còn gia tăng. Do đó việc bỏ án tử hình đối với tội danh này hiện nay là chưa phù hợp.

Về quy định không thi hành án tử hình đối với: “Người bị kết án tử hình về các tội có mục đích kinh tế, sau khi bị kết án đã chủ động khắc phục cơ bản hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn” (quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 39), như đối với các tội: sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh; tội tham ô tài sản… là hợp lý, nhằm khuyến khích người phạm tội ăn năn, hối cải, chủ động khắc phục hậu quả của tội phạm do mình gây ra, hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm…

Bốn là, một số quy định khác có liên quan như: quy định không áp dụng và không thi hành án tử hình đối với người bị kết án từ 75 tuổi trở lên. Điều này là chưa hợp lý trong điều kiện hiện nay. Vì thực tế có rất nhiều trường hợp người tuy đã 75 tuổi hoặc hơn vẫn còn rất khỏe, minh mẫn, có thể xử lý tốt nhiều việc. Trong thực tiễn vẫn có những trường hợp người ở độ tuổi này vẫn trở thành người chủ mưu, cầm đầu những băng nhóm tội phạm. Nếu quy định như dự thảo luật sẽ tạo ra sự không công bằng trong xử lý tội phạm và bỏ lọt tội phạm. Hơn nữa cách quy định của dự thảo về độ tuổi để xác định cách thức áp dụng hình phạt, xét về nhiều mặt là chưa thật sự logic và hoa học.
 

Nguyễn Sơn Ca
(Trưởng Ban Pháp chế HĐND tỉnh Cà Mau)