Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam mới  thành lập, đường lối, chủ trương của Đảng ta đã xác định “Bình đẳng và đoàn kết các dân tộc”; trong Nghị quyết về các dân tộc thiểu số của Đại hội Đảng lần thứ nhất vào tháng 3/1935 đã khẳng định: “Đảng cộng sản thừa nhận cho các dân tộc được quyền tự do hoàn toàn. Đảng chống chế độ thuộc địa, chống các hình thức trực tiếp đem dân tộc này vào đàn áp, bóc lột dân tộc khác”. Khẩu hiệu của Đảng là “Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận quyền dân tộc tự quyết”. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng (năm 1951) đã viết: “Các dân tộc ở Việt Nam đều được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết giúp đỡ nhau để kháng chiến và kiến quốc”. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng xác định nguyên tắc: “Làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình, trong cán bộ cũng như nhân dân cần khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên xã hội chủ nghĩa”. Qua các kỳ đại hội, đặc biệt Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đại hội lần thứ X của Đảng đều xác định nguyên tắc cơ bản của chính sách dân tộc là “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển”. Ngày nay trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.

Sau cách mạng tháng Tám, đến tháng 4/1946 Đảng đã tổ chức Đại hội các dân tộc thiểu số Miền Nam tại Plâycu tỉnh Gia Lai;  ngày 3/5/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Bộ Nội vụ, bao gồm nhiều cơ quan, trong đó có Nha Dân tộc thiểu số - tiền thân của Uỷ ban Dân tộc ngày nay. Đây là cơ quan quản lý nhà nước đầu tiên của chính quyền cách mạng về công tác dân tộc.

Tiếp đó, ngày 9/9/1946, Bộ trưởng Bộ Nội Vụ đã ký Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ và bộ máy tổ chức của Nha Dân tộc thiểu số nhằm “nghiên cứu và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến các dân tộc thiểu số trên toàn cõi Việt Nam, để củng cố trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết và tương trợ giữa các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam”.

Đến năm 1947, thành lập Tổ nghiên cứu dân tộc thuộc Ban Mặt Trận- Dân vận Trung ương, tiếp tục nhiệm vụ của Nha Dân tộc thiểu số với phương hướng hoạt động công tác dân tộc phù hợp với tình hình mới.

Tháng 8/1952 Bộ Chính trị Trung ương Đảng lao động Việt Nam đã đề ra nghị quyết về vấn đề dân tộc.

Ngày 22/6/1953 Chính phủ đã ban hành chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam, quy định các mặt công tác chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chính nhờ chính sách đoàn kết dân tộc đúng đắn mà các dân tộc thiểu số ở vùng núi đã tích cực tham gia kháng chiến chống Pháp, cùng cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.

Trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Từ sau năm 1954 tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, hoàn thành cuộc Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước. Ở Miền Nam, cơ quan công tác dân tộc được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục; các tỉnh Tây Nguyên và Miền Đông Nam Bộ vận động nhân dân các dân tộc đoàn kết chống lại âm mưu chia rẽ với chính sách “chia để trị” của địch; chống lại cái gọi là Mặt trận Fulrô đòi tự trị giả hiệu; chống lại việc dồn dân lập “ấp chiến lược”... Các tỉnh Miền Tây Nam Bộ, thành lập các Ban Khmer vận của tỉnh và một số huyện, để tuyên truyền vận động bà con dấy lên phong trào chống Mỹ – Ngụy, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, hoạt động bí mật với công khai và bán công khai... đã tạo nên phong trào cách mạng trong đồng bào Khmer Nam Bộ ở Miền Nam..

Đầu năm 1955 "Thành lập Tiểu Ban Dân tộc ở Trung ương dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương. Bộ máy dân tộc thiểu số trực thuộc Thủ tướng Phủ và tạm thời đặt ở Ban Nội chính”.

Năm 1959, thành lập Ủy ban Dân tộc thuộc Hội đồng Chính phủ và có quyền hạn trách nhiệm ngang Bộ “có nhiệm vụ giúp Chính phủ nghiên cứu và thực hiện chính sách dân tộc nhằm tăng cường đoàn kết giữa các dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng tương trợ và tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số tiến bộ mau chóng về mọi mặt theo chủ nghĩa xã hội".

Năm 1961, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Dân tộc được quy định cụ thể hơn tại Nghị định số 133/CP ngày 29/9/1961 của Chính phủ: “Ủy ban Dân tộc là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, nhằm tăng cường đoàn kết các dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng và tương trợ, tạo điều kiện cho các dân tộc thiểu số cùng nhân dân toàn quốc tiến nhanh về mọi mặt lên chủ nghĩa xã hội”.

Sau ngày đất nước thống nhất tháng 4 năm 1975, công tác dân tộc với yêu cầu nhiệm vụ mới: Tập trung ổn định sản xuất và đời sống, giải quyết các vấn đề xã hội do hậu quả chiến tranh để lại.

Năm 1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Quyết định số 38/QĐ-TW, ngày 14/5/1979 quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức Ban Dân tộc Trung ương và của các tỉnh: “Ban Dân tộc là cơ quan tham mưu, giúp việc của Trung ương (hoặc cấp ủy địa phương) về vấn đề dân tộc thiểu số”.

Để tăng cường sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ đối với công tác dân tộc và thực hiện Quyết định 72/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng  ra Quyết định số 147/CT ngày 11/5/1990 thành lập Văn phòng Miền núi và Dân tộc, để giúp Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo công tác Miền núi và Dân tộc. Văn phòng Miền núi và Dân tộc đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Đến năm 1992, Bộ Chính trị quyết định hợp nhất hai cơ quan Ban Dân tộc Trung ương và Văn phòng Miền núi và Dân tộc để xây dựng thành cơ quan Ủy ban Dân tộc và Miền núi, đồng thời lập Ban Cán sự Đảng Ủy ban Dân tộc và Miền núi làm nhiệm vụ tham mưu cho Đảng về công tác dân tộc và miền núi.

Năm 1995, theo Quyết định số 820/TTg ngày 15/12/1995 của Thủ tướng Chính phủ chuyển Cục Định canh định cư từ Ủy ban Dân tộc và Miền núi sang Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về Cơ quan đặc trách công tác dân tộc Khmer Nam bộ được thành lập trên cơ sở chuyển Phân ban Dân tộc Nam bộ (thuộc Ban Dân tộc Trung ương trước đây) theo Quyết định số 456/TTg, ngày 07/9/1993 của Thủ tướng Chính phủ.

Năm 2002, theo Nghị quyết kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XI (số 02/2002/QH11 ngày 05/8/2002), Uỷ ban Dân tộc và Miền núi trở lại với tên gọi ỦY BAN DÂN TỘC (như năm 1959). Ngày 16/5/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2003/NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Dân tộc.

Ngày nay vị trí của Ủy ban Dân tộc là cơ quan ngang với các Bộ của Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc trong phạm vi cả nước.

Như vậy, từ năm 1946 cơ quan công tác Dân tộc ở Trung ương đã được hình thành và phát triển, riêng đối tỉnh Cà Mau Công tác Dân tộc từng thời kỳ được phân công phù hợp với tình hình chung của cả nước đã động viên và phát huy truyền thống đoàn kết của từng dân tộc trong cộng đồng các dân tộc anh em nhằm thực hiện thắng lợi các chủ trương, Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương .

Vào tháng 3 năm 1951 Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương hợp nhất Mặt trận Việt Minh vào Mặt trận Liên Việt nhanh chóng mở rộng đoàn kết các dân tộc, đặc biệt với đồng bào Khmer. Mặt trận Liên Việt tỉnh tổ chức trọng thể 2 cuộc liên hoan người Khmer và người Kinh (gọi là Miên-Việt lúc bấy giờ) tại Chùa Châu Trắng (Thới Bình) và chùa Cỏ Thum (Hồng Dân- Bạc Liêu) khẳng định trước đông đảo đồng bào và sư sãi : Đảng bộ và Mặt Trận thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và tất cả đồng bào khmer trong tỉnh đều được hưởng quyền lợi như đồng bào Kinh. Các phong tục tập quán truyền thống của đồng bào Khmer luôn được tôn trọng. Bên cạnh đó; bằng nhiều thủ đoạn  địch tuyên truyền xuyên tạc nhằm chia rẽ người Kinh với người Hoa, lôi kéo người Hoa, làm giảm sức mạnh đoàn kết chiến đấu trong lực lượng cách mạng ở giai đoạn quyết liệt. Ngày 25/5/1952 tỉnh ủy ra chỉ thị về công tác Hoa vận, chỉ thị quy định: Xã nào có đông người Hoa tổ chức Hội Giải liên và Cấp ủy phân công Ủy viên Thường vụ phụ trách công tác Hoa vận. Đối với vùng du kích, xã nào có đông người Hoa tổ chức Hội Giải liên và cấp ủy phân công Ủy viên Thường vụ phụ trách công tác Mặt trận kiêm công tác Hoa vận- phụ trách Hội Giải liên. Đối với tỉnh thành lập Ty Hoa kiều vụ ( trực thuộc Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh ) và thành lập Ban Kiều công vụ nhằm giải quyết mối quan hệ Hoa kiều với chính quyền cách mạng. Ban Kiều công vụ có nhiệm vụ tổ chức đoàn kết, giác ngộ Hoa kiều, bênh vực quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho Hoa kiều, thắc chặt tình đoàn kết Việt- Hoa.

Đầu năm 1954 (12/01/1954) Tỉnh ủy ra Nghị quyết về công tác Khmer vận- vận động bộ phận dân tộc tham gia kháng chiến; với phương châm: Thực hiện chính sách dân tộc bình đẳng và tương trợ; đả phá ý thức khinh thị dân tộc, đả phá ý thức hẹp hòi dân tộc. Đã góp phần cùng cả nước đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; hũ gạo nuôi quân, tuần lễ vàng…đồng bào Kinh, Khmer, Hoa Cà Mau tích cực hưởng ứng tham gia, nhất là chương trình hành động của Việt Minh Vì “đất nước độc lập”, “dân tộc bình đẳng”, “người cày có ruộng”, “tự do tín ngưỡng” đã đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của đồng bào các dân tộc dấy lên phong trào “bài phong, phản đế”, đánh đổ địa chủ chia lại ruộng đất cho dân nghèo, trở thành sức mạnh góp phần cùng cả nước giành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Từ phong trào Đồng khởi năm 1960 đến cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân 1968; đặc biệt đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng đồng bào các dân tộc trong tỉnh tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết đấu tranh anh dũng kiên cường, cùng với các dân tộc anh em khác trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam; đồng bào Hoa, Khmer đã có những cống hiến to lớn về sức người, sức của, hy sinh xương máu cho Độc lập Tự do của Tổ quốc. Trong những năm chiến tranh ác liệt có những lúc tình hình cách mạng gặp nhiều khó khăn, nhưng “Đảng tin dân – dân tin Đảng”, “quyết bám đất, giữ làng”, “một tấc không đi, một ly không rời”; đồng bào các dân tộc một lòng, một dạ tin vào Đảng, đi theo Đảng, sẵn sàng hy sinh, Qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tỉnh Cà Mau có 16.874 liệt sĩ, 16.036 thương binh, 210 bệnh binh, 572 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 27 anh hùng lực lượng vũ trang, 45 đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang. Trong đó, đồng bào Khmer, Hoa có 198 liệt sĩ, 158 thương binh, 06 bà mẹ Việt Nam anh hùng, 02 nữ anh hùng liệt sĩ vũ trang nhân dân và hàng trăm gia đình có công với cách mạng, được Đảng, Nhà nước tặng thưởng gần 1.000 Huân, Huy chương các loại.

Những tấm gương hy sinh vì độc lập của Tổ quốc vì hạnh phúc cho nhân dân, hôm nay Đảng và Nhà nước luôn tôn vinh, biết ơn, trân trọng và giữ gìn cho ngày hôm nay và mai sau.

Đối với tỉnh Cà Mau cơ quan làm công tác dân tộc đầu tiên của tỉnh với tên gọi “Ban Dân tộc-Tôn giáo" theo Quyết định số 80/2003/QĐ-UB Ngày 03/12/2003 của UBND tỉnh Cà Mau.

Đến ngày 13/10/2008, thực hiện theo yêu cầu chỉ đạo của Trung ương UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1470/QĐ-UBND  thành lập Ban Dân tộc tỉnh Cà Mau. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước lĩnh vực tôn giáo chuyển giao sang Sở Nội vụ, Ban Dân tộc làm tham mưu UBND tỉnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ  quản lý nhà nước về dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc; trong tỉnh có 5 huyện- thành phố đủ điều kiện thành lập Phòng Dân tộc, còn lại 4 huyện phân công lãnh đạo văn phòng HĐND-UBND phụ trách công tác dân tộc; cấp xã công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc do đồng chí Phó chủ tịch UBND kiêm nhiệm.

Đối với HĐND tỉnh, Kỳ họp thứ nhất HĐND tỉnh khóa VIII, nhiệm kỳ 2011-2016 Quyết Nghị thành lập Ban Dân tộc HĐND tỉnh gồm 07 thành viên.

Từ Nha Dân tộc thiểu số đến Ủy ban Dân tộc hôm nay, Cơ quan công tác dân tộc với nhiều tên gọi khác nhau, nhưng đều có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là tham mưu cho Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, nghiên cứu đề xuất xây dựng chính sách dân tộc và tổ chức thực hiện công tác dân tộc.

70 năm qua, vùng dân tộc thiểu số đã có những bước phát triển, đạt được những thành tựu tương đối toàn diện trên các lĩnh vực. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc được thực hiện đầy đủ, đoàn kết giữa các dân tộc luôn luôn được tăng cường, củng cố; sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội được đầu tư phát triển; văn hóa truyền thống của các dân tộc được tôn trọng và phát huy; năng lực quản lý của cơ quan công tác dân tộc được từng bước nâng lên; tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc từ Trung ương đến địa phương từng bước được kiện toàn, củng cố; công tác đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ cho ngành được quan tâm; sự phối hợp giữa cơ quan công tác dân tộc với các Bộ, Ban, ngành Trung ương và địa phương ngày càng chặt chẽ hơn trong thời gian qua cũng như hiện nay. Riêng đối với tỉnh Cà Mau qua tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính Phủ về công tác Dân tộc, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày nay có sự tăng trưởng và phát triển đáng kể. Đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số được nâng lên rõ rệt; sự nghiệp giáo dục, y tế phát triển; công tác giảm nghèo và an sinh xã hội được quan tâm thực hiện, tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số hàng năm giãm từ 2-3%; hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu ngày càng được đầu tư, phát triển; các chương trình dự án, chính sách được triển khai đồng bộ và hiệu quả; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết các dân tộc  được tăng cường; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, không xẩy ra điểm nóng hay khiếu kiện đông người; xây dựng được tình đoàn kết gắn bó giữa các dân tộc; phát huy vai trò của người uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.

70 năm là một chặng đường luôn khắc sâu lời Bác Hồ dạy “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

BAN DÂN TỘC HĐND TỈNH.